To gan luận về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện

nguyen-khac-vien-1485150879176Ngày 10 tháng 5 năm 2017, kỷ niệm 20 năm ngày mất của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, nhiều tờ báo viết bài ca ngợi ông, gọi ông là “bậc tiên tri”[1], “một người uyên bác và thẳng thắn”[2], người có “tư tưởng canh tân đất nước”[3]… Sinh thời, bác sĩ Viện được tôn xưng với nhiều danh hiệu: nhà báo, nhà văn, nhà sử học không chuyên, đồ Nghệ, nhà bác học, người Pháp gọi ông là nhà thơ vì đã chuyển ngữ Truyện Kiều sang tiếng Pháp với tâm hồn của một thi nhân. Nhưng có lẽ ông tâm đắc nhất với hai danh hiệu “sĩ phu hiện đại” và “nhà văn hóa”[4].

Trên không gian ảo, người ta vẫn truyền nhau một bức thư ngắn đề ngày 30 tháng 11 năm 1986 của bác sĩ Viện. Tôi đọc thư, hình dung về ông, 73 tuổi, mình hạc xương mai, cúi người bên chiếc máy chữ, hai bàn tay lướt nhanh trên bàn phím. Thư ngắn gửi một quan đại thần của triều đình, cũng là đại thần của thi ca cách mạng Việt Nam. Những dòng thân tình nhưng cũng thật nghiêm khắc. “Anh Tố Hữu ạ, trước kia đọc thơ anh, dịch thơ anh cảm hứng đằm thắm bao nhiêu thì nay thấy ngán bấy nhiêu… Chúng tôi thấy anh càng quyền cao chức trọng, đọc thơ anh càng thấy nhạt nhẽo. Anh mà trở lại Trung ương, trở lại chức quyền là chôn vùi sự nghiệp thơ trong lòng nhân dân…” Chính sử không viết, hậu thế vì vậy không biết bức thư của vị “sĩ phu hiện đại” có được gửi đi hay không, có đến tay Tố Hữu và phản ứng của vị đại thần ra sao.

20 năm sau ngày ông mất, tôi ngồi đọc cuốn sách “Việt Nam, một thiên lịch sử” của ông. Cuốn sách được truy tặng giải thưởng nhà nước năm 2000, được ca ngợi là “vừa đậm đà phong cách văn học vừa mang tính chính luận sâu sắc và bản sắc dân tộc” (Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình), “bút pháp của ông ngắn gọn, nghiêm cẩn những sâu sắc, hấp dẫn” (Mai Quốc Liên), “là công trình khoa học lớn” (Hoàng Tùng).

Dù được “bảo đảm” bằng giải thưởng nhà nước và những lời tán dương nồng nhiệt của nhiều tác giả tên tuổi, tôi đã đọc cuốn sách một cách khó nhọc, đã buồn bã suy tư và viết những dòng này. Trong một tâm trạng bình tĩnh, tôi không chờ đợi kiểu nhún nhường “nếu có điều gì sai sót, mong người đọc lượng thứ”. Nếu tôi bị ném đá vì đã vội vàng đưa ra những nhận định nông cạn và sai lầm về bác sĩ Viện thì tốt biết bao nhiêu, cho cuộc đời, cho danh tiếng của người mà tôi đặc biệt kính trọng.

Những hạt sạn trong “Việt Nam một thiên lịch sử”

Trình bày thiên lịch sử bi hùng của dân tộc, từ thời thượng cổ đến những năm cuối cùng của thập kỷ 90 của thế kỉ trước trong 500 trang sách thực sự là một thách thức cho bất kỳ ai. “Ngọc còn có vết, việc đời đa đoan”, nếu đây đó trong 500 trang sách có chỗ cần bàn lại thì cũng là sự đương nhiên.

+Về Nguyễn Du và Truyện Kiều (Trang 176-180)

Tác giả dành riêng một bài, trân trọng viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều. (Thật thú vị, ba cha con nhà Nguyễn Khắc mê kiều vô cùng. Nguyễn Khắc Niêm và Nguyễn Khắc Dương rất hay lẩy Kiều, Nguyễn Khắc Viện dịch Kiều ra tiếng Pháp). Tuy vậy,  khi ca ngợi nội dung có tính Kiều “hiện thực cao”, “tố cáo chế độ phong kiến áp bức và thối nát một cách thích đáng”, “ca ngợi tình yêu của những đôi trai gái tự do tìm đến nhau”… mà không nhắc đến “kim Vân Kiều” thì đó một thiếu sót đáng ngạc nhiên, bởi công đầu trong nội dung truyện Kiều phải là Thanh Tâm Tài Nhân.

Cụ Viện có sự nhầm lẫn khi viết rằng: “Thế rồi, dưới ngọn bút của Nguyễn Du, nàng Kiều sau bao phen bị cuộc đời tàn bạo chà đạp, phải biến thành gái làng chơi, đã nói với người yêu mình rằng nàng vẫn còn trong trắng, bất chấp mọi dập vùi, rằng tính yêu chung thủy phải được quan niệm một cách nhân đạo hơn là cách nhìn của những kẻ đạo đức giả”. Thực ra đó là lời Kim Trọng an ủi người yêu, sau 15 năm lưu lạc, khi nàng một mực tự nhận “Thiếp từ ngộ biến đến giờ/ Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa” và khăng khăng “Nghĩ mình chẳng hổ mình sao/ Dám đem trần cấu dự vào bố kinh”.

Dù tựa đề “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, khi nhắc đến Nguyễn Du không thể không nói đến di sản đặc biệt quý giá là ba tác phẩm thơ chữ Hán, “Thanh hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm” và “Bắc hành tạp lục”. Nguyễn Khắc Viện dành đúng một câu để giới thiệu về ba tập thơ này như sau:  “Trong các bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du miêu tả nỗi thống khổ của những người nghèo bằng những lời thắm thiết”. Tập thơ với 203 bài[5] mang nặng tâm sự và thái độ của Nguyễn Du với cuộc đời, với các triều đại, với những nhân vật lịch sử bằng những vần thơ trữ tình-triết học trác tuyệt. Nói rằng các tập thơ này “miêu tả nỗi thống khổ của những người nghèo” thật sự không chính xác.

+Những đánh giá về Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh (Trang 229-231)

Bác sĩ Viện khẳng định: “Nhân vật nổi bật nhất trong phong trào yêu nước 20 năm đầu thế kỷ XX là Phan Bội Châu”. Rằng Phan Bội Châu “lập ra một tổ chức mới – tổ chức Duy Tân. Duy Tân chủ trương tổ chức lại lực lượng trong nước, đồng thời cử người ra nước ngoài học tập kỹ thuật mới về quân sự và chính trị, chuẩn bị đấu tranh vũ trang”. Với Phan Chu Trinh, bác sĩ Viện viết “Chủ nghĩa cải lương của Phan đã không cứu được ông khỏi bị nhà cầm quyền thuộc địa bắt vào năm 1909, và chỉ nhờ sự can thiệp của các nghị sĩ Pháp, ông mới được cứu thoát”.

Ba câu trích ở trên có hai điều cần bàn lại.

Đầu tiên, việc đánh giá Phan Bội Châu là “nổi bật nhất” và Phan Chu Trinh là “cải lương” không còn đúng ở thời hiện tại. Ngày nay, con cháu càng ngày càng thấm thía và muốn đi theo con đường “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” do Phan Chu Trinh đề xướng.

Thứ hai, thông tin viết về Phan Chu Trinh trong câu đã dẫn ở trên là không chính xác. Trên thực tế, cụ Phan hai lần ngồi tù, Nguyễn Khắc Viện đang nói về lần thứ nhất. Lần đó Phan Chu Trinh bị kết án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), bị đày đi Côn Đảo ngày 4 tháng 4 năm 1908. Sau nhờ dư luận trong nước và sức ép của hội nhân quyền Pháp, đầu mùa hè năm 1910Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc.

+Viết về Phạm Hồng Thái (trang 254)

Lịch sử ghi rõ, liệt sĩ Phạm Hồng Thái, 28 tuổi, trước khi thực hiện mệnh lệnh có để lại di thư “Hồng Thái tôi vâng mệnh toàn thể hy sinh vì 40 triệu đồng bào[6], chết không hề nuối tiếc; những mong kêu cứu trên toàn thế giới để cho dân tộc Việt Nam được tồn tại trên trái đất này thì Hồng Thái tôi cũng yên lòng nơi chín suối[7]. Quả bom Sa Điện vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sao bác sĩ Viện mô tả “phải nhảy xuống sông Châu Giang rồi chết đuối”? Hai chữ “chết đuối” đặt ở đây e mắc tội với vong linh vị anh hùng Phạm Hồng Thái?

+Văn học nghệ thuật (Trang 446-450)

Bài này nằm trong chương 9, viết về xây dựng những cơ sở đầu tiên của CNXH. Vậy nên tác giả chỉ đề cập đến các tác giả của nền văn học XHCN. Điều này hiển nhiên. Nhưng trong tập sách không có bài viết nào đề cập nền văn học nghệ thuật của nửa đất nước còn lại. Trong một công trình biên niên lịch sử dân tộc thì đó là một khoảng trống thật khó lý giải.

Theo bác sĩ Viện thì những lớp nhà văn lãng mạn trước 1945 đã có một “sự chuyển hóa sâu sắc” và dẫn ra các tên tuổi: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy Cận… Bác sĩ Viện đánh giá: “Những luận văn chính trị, đặc biệt của các nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, với văn phong súc tích, ngôn ngữ tinh tế, đã là những tác phẩm văn học đánh dấu một thời kỳ.” Nhận định sau được lăp lại đến hai lần, lần đầu trong bài Phong trào văn học 1930-1945, bác sĩ Viện đã “lưu ý” rằng các luận văn chính trị của các nhà lãnh đạo Đảng là “những mẫu mực xuất sắc của văn xuôi mới Việt Nam”. Bây giờ nhìn lại, độc giả có cảm thông với nhận định “chuyển hóa sâu sắc” của lớp các nhà thơ lãng mạn và sự “súc tính, tinh tế”, “mẫu mực xuất sắc” trong các luận văn của các nhà lãnh đạo? Trong thực tế, các nhà thơ lãng mạn bà bác sĩ Viện nêu ra, không một ai vượt qua được những thành tựu của bản thân trước khi đi theo Đảng. Một người bạn của tôi nhất định muốn bạn đọc thưởng lãm văn phong của cụ Đồng qua lời giới thiệu của cho cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học[8]. Lời giới của Ông Đồng gồm bốn câu. Câu đầu viết “Quyển từ điển tiếng Việt này là quyển từ điển đầu tiên ở nước ta…” . Câu cuối viết “Tôi nhiệt liệt hoan nghênh công trình này và thân ái gởi đến các đồng chí có công trong việc biên soạn những tình cảm nồng nhiệt của tôi, đồng thời cũng đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện và nâng cao công trình quan trọng này, chuẩn bị biên soạn một bộ từ điển tốt hơn sau này[9].

+Viết về những sĩ quan trong chế độ Việt nam Cộng Hòa (Trang 455-456):

Từ năm 1954, hàng ngàn sĩ quan đã được Mỹ đào tạo và nhồi sọ, phần đông là những phần tử lưu manh, những kẻ mất gốc thèm khát đô la… Chúng giàu có lên ghê gớm bằng những cuộc cướp bóc trong các đợt hành quân, các vụ buôn lâu hàng hóa, vũ khí, ma túy, chúng cài bà con thân thích vào những vụ áp phe béo bở – xuất nhập khẩu, khách sạn, đĩ điếm, ma túy… Bọn đâm thuê chém mướn được dùng để thực hiện những công việc hèn hạ như tra tấn, tàn sát, đốt nhà, mưu sát… Một bộ máy tuyên truyền đồ sộ nhằm đầu độc tư tưởng văn hóa…”.

Hơi văn sang sảng không khí áp đặt, mạt sát. Thật khó tưởng tượng rằng đánh giá này được viết ra gần 20 năm sau khi chiến tranh kết thúc? Lời khen của nhà báo cách mạng lão thành Hoàng Tùng “ngắn gọn, nghiêm cẩn, sâu sắc, hấp dẫn” khiến tôi thực sự khó xử.

+Viết về các vấn đề của đất nước trong tương lai (Trang 530-537)

Đây là bài kết thúc cuốn sách, tác “chốt lại” những vấn đề trọng đại trước mắt của đất nước. Trong bài có đoạn sau đây.

“Một khi chính quyền đã ở trong tay một nhà nước Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì con đường đã được vạch ra sáng tỏ:

            -Xóa bỏ chế độ phong kiến, loại trừ từng bước CN Tư bản và nền kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường.

            -Cải cách rộng đất triệt để và hợp tác hóa nông nghiệp, đích cuối cùng là thành lập những nông trường quốc doanh.

            -Phát triển nhanh chóng khu vực kinh tế nhà nước nắm trong tay toàn bộ quá trình sản xuất – phân phối của cải vật chất theo một kế hoạch chi phối mọi chi tiết của hoạt động kinh tế.

            -Hội nhập vào “phe XHCN”, đối lập với “phe đế quốc chủ nghĩa”.

Cả bốn quyết tâm “xóa bỏ”, “cải cách”, “phát triển” và “hội nhập” mà bác sĩ Viện đưa ra ở trên chỉ có một giá trị duy nhất. Ấy là việc gợi lại cho các độc giả đã qua tuổi tri thiên mệnh rùng mình nhớ về những đợt học chính trị vô vị, buồn chán và dài lê thê của 30 năm về trước.

+Một ý nhỏ về văn phong

Tôi chỉ đọc được bản dịch, văn phong có thể không phải là của chính tác giả. Cứ liệt ra đây để người đọc suy xét. Câu trích dẫn sau đây có phong vị đặc trưng của một tài liệu tuyên truyền thời Việt Nam đang là lương tri thời đại, dân chúng đang hồ hởi chờ xem cơn giãy chết của CNTB. Câu văn dài tưởng như bất tận, chan chứa niềm lạc quan bất tận về tương lai đất nước.

Ngay từ 1977, toàn thể các bộ máy của Đảng và của nhà nước, cũng như các tổ chức quần chúng – Phụ nữ, Thanh niên, Công đoàn, Mặt trận tổ quốc, đều được huy động cho một chiến dịch rầm rộ nhằm xóa bỏ tư thương, cải tạo các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Sài Gòn thành xí nghiệp quốc doanh hoặc liên doanh, đưa tất cả nông dân miền Nam vào các hợp tác xã nông nghiệp; những hợp tác xã đã có ở miền Bắc phải nhanh chóng tiến lên quy mô đại công xã”.

+Một câu hỏi bỏ ngỏ

Viết về văn hóa xã hội, về trí thức mà bỏ qua, không có một dòng nào về câu chuyện “nhân văn giai phẩm” (?), thực sự là một câu hỏi khó về “bản lĩnh” của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.

Thử tìm hiểu về tâm hồn Nguyễn Khắc Viện qua hai trang viết về Cải cách ruộng đất (Trang 369-372)

Khi cầm tập sách “Việt nam một thiên lịch sử”, đầu tiên tôi chọn đọc bài viết về cải cách rộng đất. Hai lý do rất đơn giản sau đây.

Thứ nhất, Nguyễn Khắc Viện có một số phận rất đặc biệt. Cha ông, cụ Nguyễn Khắc Niêm, vốn là vị quan đại thần triều Nguyễn, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, hai lần giữ chức Phủ Doãn phủ Thừa Thiên, Tuần vũ tỉnh Khánh Hòa, Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa. Cụ Niêm về hưu năm 1944. Sau 1945 cụ Niêm tham gia nhiều tổ chức văn hóa kháng chiến từ hội đồng nhân dân xã đến ủy viên chấp hành Liên Việt Liên khu IV. Lúc rảnh thì khám bệnh bốc thuốc giúp đỡ bà con trong vùng. Đến CCRĐ, ông cụ Niêm bị đấu tố, rồi bị chết trong trại. Toàn bộ gia sản bị tịch thu, gia đình bị đẩy ra đường. Nghiên cứu thái độ của Nguyễn KhắcViện về vấn đề này có thể mang đến nhiều giải đáp thú vị.

Thứ hai, cá nhân tôi rất quan tâm đến “cái tôi vô danh và đáng ghét” của các tác giả, cho dù họ viết về những vấn đề vĩ đại nhất của lịch sử và thời đại. Trên bàn tôi có hai tập sách mỏng nổi tiếng “Những câu chuyện lịch sử khác thường”[10] của Jim Pipe. Hai tập sách viết về hai cuộc chiến tranh thế giới. Những thảm khốc của chiến tranh, sau khi dẫn ra những số liệu ấn tượng, Jim viết “nỗi kinh hoàng chưa dừng lại ở đó”. Tác giả lấy ngay câu chuyện trong gia đình mình. “Cụ tôi là James J. Sanders gia nhập quân đội Canada… Trung đoàn của cụ nghỉ chân trong một rạp chiếu bóng. Bệnh dịch lan nhanh như lửa cháy, chỉ trong vòng vài ngày, cả trung đoàn đều bị ngã gục, chỉ một người không bị lây bệnh có lẽ là do uống rượu whisky… Người chết vì dịch bệnh còn nhiều hơn cả vì chiến tranh”. Cuộc chiến cuốn vào vòng xoáy của nó khoảng 65 triệu người thuộc 28 quốc gia. Ông cụ James là một hạt cát. Nhưng đó là một hạt cát có địa chỉ, có số phận. Chi tiết riêng tư nhưng lại góp phần làm nên đẳng cấp của một tác giả lớn.

Quay lại với cụ Nguyễn Khắc Niêm, Nguyễn Khắc Dương viết về cha mình. “Hình ảnh người bắt chân chữ ngũ, tay phe phẩy chiếc quạt nằm dài trên tấm phản ngựa kê trước thềm nhà dinh Tham Tri Bộ Hình ở Huế, tay gác lên trán, ngâm thơ với giọng hơi trầm dưới ánh hoàng hôn, có một cái gì buồn nản, tuy nhẹ nhàng không bi đát lắm nhưng thật thấm thía. Năm 1945, ông tâm sự với con “là người có ăn có học, tự thiếu thời, thày không phải không biết đến cái nhục mất nước; và các cụ Cách Mạng chí sĩ có ý khuyến dụ thầy, nhưng một mặt thày thấy không thể thành công, mặt khác thì biết mình là người thiếu đảm lược gan dạ, sợ không dám dây mình vào “đại sự” chẳng những không lợi ích gì mà còn có thể hại đến đại sự của các cụ, nên thầy từ chối. Ra làm quan có chăng cũng là cái nghề sinh nhai, miễn đừng gây nên tội ác gì, chỉ mong sống bình yên lương thiện, nuôi vợ con”.

Tính cách hàng ngày của cụ Niêm có thể suy ngẫm thêm qua cách cụ dạy các con. “Mỗi khi quét mạng nhện chăng ở trần nhà hay góc tường, thầy cấm không được giết các con nhện chạy trốn. Cụ bảo: mình đã phá nhà người ta chưa đủ hay sao lại đuổi theo giết người ta nữa.” Gọi mạng nhện là “nhà người ta”, sao lại có người cha nhân từ đến vậy!

Vậy nhưng ngoài việc bị đấu tố và chết trong trại cải tạo, cả gia đình cụ chịu tai họa. Lời Nguyễn Khắc Dương: “Mẹ già tôi! Đã cần kiệm giúp thân phụ tôi giữ được thanh liêm trong lúc làm quan! Từ bị trói suốt một ngày trời để bắt nhận tội xúi dục con mình ăn trộm buồng chuối trong thửa vườn mà trước đó vài ngày mình còn là chủ nhân sở hữu. Mẹ già tôi! Hơn 20 năm với hai bàn tay trắng theo nghĩa đen, nuôi con khôn lớn sau khi chồng bị đấu tố, chết trong trại học tập và bị tịch biên toàn bộ gia sản, không ai dám thuê mướn, giúp đỡ hay chào hỏi, phải rời bỏ quê nhà “đi tha hương cầu thực” theo nghĩa đen!”

Không chỉ riêng gia đình, cả dòng họ Nguyễn Khắc và nhiều gia đình khác trong vùng bị tan nát. Nguyễn Khắc Dương viết: “Mẹ tôi! Sao lại không tự tử năm 54 như hai bà cô của tôi, như bà cụ thím của thân phụ tôi, như ông dượng chồng bà dì tôi, như biết bao nhiêu người khác đã làm trong hoàn cảnh tương tự! Thần lực nào đã giữ cho hai hàm răng của người lại để khỏi cắn lưỡi mà chết đi cho rảnh nợ đời…

Trong “Việt Nam một thiên lịch sử’, CCRĐ được Nguyễn Khắc Viện viết trong 2 trang sách. Rất lạ, ở đó chỉ có âm hưởng hào hùng như một bản hùng ca. Chỉ có thắng lợi, chỉ có quyết tâm, quyết liệt để đạt đến thành tích “hàng trăm ngàn hecta đất đã được cấp phát cho dân nghèo”. Trong đó “Nông dân gợi lại những nỗi khốn khổ và nhục nhã của mình, vạch trần hành vi tham nhũng và tội ác của địa chủ, cường hào, những xấu xa của chế độ cũ… Phát động quần chúng thực hiện cuộc CCRĐ đã tạo nên niềm phấn khởi trong nông dân”.

Với giai cấp địa chủ Nguyễn Khắc Viện dùng những lời lẽ đầy uy lực:  “Tuy vậy, các địa chủ vẫn còn giữ một phần ruộng đất khá lớn, tiếp tục bóc lột nhân dân và chính quyền thôn xã một phần vẫn còn trong tay họ; tình hình đó cản trở việc áp dụng các biện pháp nông nghiệp mà nhà nước ban bố”. Và cụ Viện đưa ra tổng kết, lời tổng kết vang lên đầy “chất thép”, không khoan nhượng, rằng “kinh nghiệm cho thấy: nhiều địa chủ đã phàn nàn kêu ca hoặc thậm chí ít nhiều ra mặt chống đối. Chỉ có một cuộc phát động quần chúng nông dân mới có thể đập tan được sự chống đối đó và xóa bỏ hẳn được chế độ phong kiến cản trở tiến bộ xã hội và công cuộc giải phóng dân tộc”.

Kết thúc hai trang sách, cụ Viện dẫn lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vang lên như tiếng kèn xung trận “Chưa bao giờ thấy có một làn sóng người VN đi ra mặt trận đông đảo như vậy… Hậu phương truyền đến tận người chiến sĩ ý chí quyết thắng, tinh thần kháng chiến tuyệt vời và niềm phấn khởi do CCRĐ tạo nên”.

CCRĐ trong sách của Nguyễn Khắc Viện chỉ có tráng ca và niềm phấn khởi tuyệt vời, không hề có tiếng rên của đau đớn, của tủi nhục. Trong cuộc cách mạng của người vô sản, không chấp nhận bi kịch của cá nhân, dù đó là cha mẹ, chú bác và dòng họ mình?

Bài học Nguyễn Khắc Viện

Đặt bên nhau hai cuốn lịch sử của hai tác giả, cuốn “Việt nam sử lược”[11] của Trần Trọng Kim và “Việt Nam một thiên lịch sử” của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ta thấy có nhiều điều thú vị. Hai cụ là đồng hương Hà Tĩnh, đều cùng Tây học. Một cuốn viết đầu thế kỷ, một trong những cuốn đầu tay của một nhà giáo, khiêm cung nhận “sử lược”. Một cuốn viết cuối thế kỷ, cuốn sách cuối cùng của một bác sĩ, tự hào rằng “một thiên lịch sử”. Cuốn đầu thế kỷ khi dân mình là loại Annam mit, cụ Kim dẫn ra danh mục 26 sách tham khảo (16 cuốn chữ Nho và chữ Quốc ngữ, 10 cuốn chữ Pháp). Cuốn sau khi dân mình ngang tầm thời đại, công trình khoa học này không dẫn một cuốn sách tham khảo nào.

Cụ Kim nhiều hơn cha cụ Viện 6 tuổi. Trong “Việt Nam một thiên lịch sử” của cụ Viện, cụ Kim chịu cái án nặng nề. “Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim” (trang 312) đã có những động thái khiến cụ Viện hùng hồn tuyên bố “Chính phủ Trần Trọng Kim tự vạch mặt, đơn giản họ chỉ là tay sai của người Nhật” (Trang 311). Cho đến nay, sự nghiệp chính trị của Trần Trọng Kim vẫn đang là vùng cấm. Cuốn sách của một tác giả tai tiếng (?) nhưng với nhiều thế hệ người đọc của gần 100 năm qua, nó chưa bao giờ cũ.

Con người và sự nghiệp của Nguyễn Khắc Viện được đúc kết nên từ năm đặc điểm sau đây:

  • Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống về khoa bảng coi trọng lễ nghĩa, ghét dối trá, thương người nghèo, yêu cuộc sống thanh đạm. Quê hương Nghệ Tĩnh trong nửa đầu thế kỷ XX là vùng đất văn vật sản sinh nhiều anh tài cho đất nước.
  • Bản tính thông minh và giàu nghị lực, nhiều khát vọng với quê hương đất nước.
  • Thấm nhuần Đạo Nho từ thơ bé. Được đào tạo bài bản văn hóa Tây Phương, 26 năm sống và hoạt động ở Paris. Sau đó là những nghiên cứu sâu về đạo phật, đạo Công giáo.
  • Cả cuộc đời là một cuộc chiến đấu bền bỉ, can trường với thần Chết.
  • Tiếp thu học thuyết Max, trở thành người Cộng sản, suốt đời kiên định, được chính quyền tạo điều kiện để ông làm việc, sáng tạo, cống hiến.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nhận được sự kính trọng và tôn vinh của người đương thời. Nhưng nếu coi ông là nhà văn hóa, sản phẩm lưu truyền cho hậu thế, thì buộc phải xét đến giá trị cuốn sách quan trọng nhất của ông, “Việt Nam một thiên lịch sử”.

Cuốn sách thiếu hẳn cái khí chất cần thiết của một kẻ đi đường dài với các thế hệ tương lai. Vì sao vậy? Xem lại các đặc điểm hun đúc nên con người và tác phẩm của Nguyễn Khắc Viện, tôi cứ nghĩ mãi về đặc điểm cuối cùng. Nếu ông không gặp chủ nghĩa Max, có thể sự nghiệp của ông sẽ hoàn toàn khác?

Dù ở nhiều thành phố, tên ông được đặt cho nhiều con đường và trường học, dù có nhiều bộ phim và lời ngợi ca ông, riêng tôi một hậu thế vô danh, nghĩ về ông, tôi vẫn giữ một niềm thất vọng. Sự thất vọng có vị cay đắng và tiếc nuối.

[1] https://kimdunghn.wordpress.com/2017/05/08/bac-tien-tri-buc-thu-cua-nguyen-khac-vien-gui-to-huu/

[2] http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20170509/nguyen-khac-vien-mot-nguoi-uyen-bac-va-thang-than/1311111.html

[3] http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguyen-khac-vien-va-nhung-tu-tuong-canh-tan-dat-nuoc.html

[4] Bàn về Đạo Nho, NXB Thế giới, 1993.

[5] Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn học, 1996

[6] Số liệu này không chính xác(?) Năm 1954, dân số nước ta mới 23,4 triệu. http://tailieu.vn/tag/dan-so-nuoc-ta-1954.html

[7] http://www.vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/pham-hong-thai-va-tieng-bom-thuc-tinh-chan-ly

[8] http://vienngonnguhoc.gov.vn/bai-viet/tai-ban-tu-dien-tieng-viet_575.aspx

[9] Cả một Viện ngôn ngữ, lấy mấy lời loằng ngoằng của ông Thủ tướng để làm bản chứng nhận chất lượng! Học giả Nguyễn Hiến Lê có lần nói đại ý rằng những người viết có nhân cách trong chế độ cũ coi sự giới thiệu của “các anh hai trong chính quyền” là việc làm mất nhân cách.

[10] Nhà xuất bản Kim Đồng, 2015

[11] NXB Văn hóa thông tin, 1999

9 thoughts on “To gan luận về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện

  1. Thưa ông Nguyễn Hoa Lư. Rất cảm ơn ông về bài viết. Tôi là một “đệ tử” của Thầy Nguyễn Khắc Viện. Thầy tôi đã mất từ 20 năm trước, nay đọc bài viết của ông tôi có mấy băn khoăn :
    1- Sinh thời, thầy tôi là người rất khiêm nhường, kiệm lời, ngay cả khi bị thất sủng thầy tôi vẫn vô cùng điềm đạm. Với thuật dưỡng sinh, thầy tôi hoàn toàn có thể điều chỉnh bản thân để không bức xúc. Thầy tôi rất cẩn trọng trong phát ngôn trực tiếp, những vấn đề cụ nêu ra dường như đã được cụ suy nghĩ thấu đáo. Chính vì thế, tôi rất nghi ngờ : văn phong của thầy tôi và nhất là “quan điểm” về chính trị về nhân tình thế thái trong cuốn sách ” VN một thiên sử”.
    2- Thầy tôi không cơ hội như một số kẻ cùng thời khác. Cụ nói và viết ra những quan điểm nhất quán của cụ về CNXH về dân chủ, về nhân quyền, về cái gọi là ” làm chủ tập thể” , là HTX v.v… Những vấn đề này trong cuốn sách đó xa lạ với tư duy triết học và xã hội học của thầy tôi.
    3- Xin ông tham khảo bài của ông Nguyễn Thanh Giang, của ông Lê Phú Khải để “nghe hai tai” về thầy tôi. Đời người có đúng, có sai. Thầy tôi yêu CNXH thật lòng, nhưng tuyệt đối không phải là thứ CNXH kiểu trại lính. Thầy tôi đã từng viết cuốn “bi kịch của người khai phá” nói về Liên Sô.
    Có mấy lời mạo muội gửi tới ông. À , nếu Thầy tôi còn sống, thầy tôi không đồng ý với cái tựa bài ” To gan……” của ông đâu. Vì thầy tôi luôn khuyến khích tranh luận công khai, dân chủ, thầy tôi không có lối suy nghĩ “cậy đa, cây đề” để hù dọa ai cả, thưa ông !

    • Tôi muốn lắng nghe.
      Bác cứ chỉ ra, dòng nào, câu nào trong bài viết của tôi là hồ đồ, tôi sẽ sửa chữa hoặc viết lời xin lỗi bạn đọc. Cụ Viện đã là một nhân vật lịch sử, mọi khen chê với cụ là vô nghĩa, nó chỉ thực sự có ý nghĩa với các thế hệ học trò của cụ thôi.
      Hơn nữa tôi chỉ giới hạn câu chuyện từ những trang viết cụ thể của cuốn “VN một thiên lịch sử”.

      • Thưa ông Nguyễn Hoa Lư. Bài viết nói trên của ông “luận ” về Thầy tôi, trong khuôn khổ cuốn ” VN một thiên sử” không có câu nào chữ nào “hồ đồ” cả. Chỉ là qua bài viết của ông, tôi nhận thấy nội dung cuốn sách này hầu như không đúng với quan điểm của thầy tôi lúc sinh thời. Cá nhân tôi, đoan chắc đây là tác phẩm mà ai đó đã xào nấu theo một tiêu chí định sãn. Xin ông đừng hiểu lầm là tôi muốn “phản biện” bài viết này của ông. Thầy tôi đã mất, là một học trò tôi thấy cần phải nói, để người đương thời và hậu thế hiểu đúng và hiểu rõ về Thầy tôi. Vậy thôi. Xin trân trọng cảm ơn ông.

  2. Bác Đinh Thắng là học trò của Thầy Viện, thấy nội dung cuốn Việt nam một thiên lịch sử “không đúng với quan điểm của thầy tôi lúc sinh thời”. Lại “đoán chắc đây là tác phẩm đã được ai đó xào nấu…”.

    Nếu bác nhận là học trò, sao không đi tìm chân lý cho Thầy mình? Thời gian sẽ qua đi, người ta chỉ biết đến thầy Viện qua cuốn sách mà ông được vinh danh.

  3. Thưa ông Nguyễn Hoa Lư. Ông nói chí phải ” … sao không đi tìm chân lý cho thầy mình ?”. Tôi bây giờ tuổi đã quá cao tết này nữa là bát tuần, lại đau yếu luôn, ngày nào cũng cả nắm thuốc. Thầy tôi cũng nhiều học tò , nhưng hình như họ không biết, hoặc biết mà cũng như tôi sức cùng, lực kiệt, bất lực chả còn làm gì được trước thời buổi nhiễu nhương này. Tôi chỉ muốn nói với ông một điều mà chết tôi cũng mang theo. Đó là ” cuốn sách mà thầy tôi được vinh danh”. Than ôi! “vinh danh” như thế thì chúng nó giết thầy tôi rồi.

  4. HUe 26/7. DUOCJ MOT BAN VĂN MACH BAO< TOI _ Nguyễn Khắc Phê da vao xem duoc bai va binh luan. .. Truoc het cam on ong Hoa Lu va ong DInh Thang da quan tam den BSNKV noi chung va cuon sach VNMTLS. Tuy vay, trong bai cua ong HOa Lư có mot so dieu khng xác đáng va cả ý kien cua ong DInh Thang cho rang sach nhu the khong phai cua BSNKV deu la ngộ
    nhận, do chưa co đu thong tin. Tôi dang bận 1 so viec va cung da gan 80, nen it ngay nua, toi se viet bai trao dôi lai. Cac chịu khó chờ xem. NKP

  5. NHL: Xin copy bài của nhà văn NKP, đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, số ra ngày 20/8/2017. Nhà văn NKP sau đó còn viết tiếp. Tôi liên lạc với nhà văn, hỏi xin ông đăng thành một bài trên blog của mình nhưng ông không trả lời. Vậy tôi đưa vào đây, như là một kỷ niệm, không biết là buồn hay vui. Tôi nói kỷ niệm vì không muốn tiếp tục câu chuyện này, ít nhất là vào lúc này. Trong bài viết, NKP muốn tôi xin lỗi đọc giả ở một chi tiết, nhưng tôi vẫn chưa có ý định bàn lại.

    Lại bàn về Nguyễn Khắc Viện và sách “Việt Nam, một thiên lịch sử”
    Nguyễn Khắc Phê

    Tôi đã xem một số bình luận của các anh trong trang FB của La Khắc Hòa và một số trang mạng khác về bài của Hoa Lư (“To gan luận về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện” – BSNKV đăng trên trang “Tiếng Dân” ngày 19/7/2017). Ý kiến của một số anh, nói chung đã cung cấp thêm những nhận định và tư liệu để mọi người suy luận một cách có cơ sở hơn. Bài của ông Hoa Lư (HL) ngay từ nhan đề và một số câu trong bài tỏ ra rất kính trọng BSNKV, nhưng tiếc rằng lại có những sai lạc (hoặc bất cập), cần phải trao đổi lại.
    Một số anh em, bạn bè bảo tôi không nên viết vì là người trong nhà; hơn nữa bàn về BSNKV thì thiên hạ đã viết suốt mấy chục năm rồi. Tuy vậy, đây không chỉ là vấn đề cá nhân và một cuốn sách, mà do vị trí của BSNKV cũng như công trình “Việt Nam, một thiên lịch sử” (VNMTLS) có quan hệ đến không ít nhận thức một số sự kiện của lịch sử đất nước, nên cần được trao đổi một cách công khai; riêng tôi, không nên tránh né, vì sau khi BSNKV mất, bà Nhất – vợ BSNKV – nhờ tôi giúp soạn tư liệu để in các bộ Tuyển tác phẩm BSNKV, nên trong gia đình BSNKV, tôi là người nắm được nhiều tư liệu nhất. Tôi hy vọng, với các căn cứ mà tôi biết rõ, có thể giúp các anh khi cần, sử dụng cho công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung và BSNKV, nói riêng, đồng thời giúp bạn đọc tránh hiểu lầm và không để cái sai của HL kéo thêm những cái sai khác (như ông Đinh Thắng, tự nhận là học trò BSNKV, tôn sùng và bảo vệ cụ Viện đến mức, nghe HL viết như thế liền quy kết: Sách VNMTLS không phải của ông Viện viết và Nhà nước vinh danh ông với công trình đó, khác chi giết chết BSNKV!…)
    Xin được lưu ý, tôi chỉ cung cấp “tư liệu” (có căn cứ “giấy trắng mực đen) để các anh và bạn đọc “tự đính chính” những cái sai hoặc bất cập của HL về mặt “tư liệu”; còn cách đánh giá của HL hay của Chu Văn Sơn về BSNKV như cho rằng BSNKV là người của “cung đình”, rồi “diễn một cách tinh vi” và “hèn một cách Hiên ngang”, “Cơ hội một cách sang trọng”… thì tôi tin nhiều người và cả Chu Văn Sơn, khi bình tĩnh lại và có điều kiện đọc toàn bộ các công trình của BSNKV, hoặc ít ra đọc mấy chục kiến nghị của BSNKV gửi các cấp Trung ương (hiện có đầy đủ ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia; nếu quá thiếu thời gian thì chỉ đọc sách “Ước mơ & Hoài niệm – Nguyễn Khắc Viện kể chuyện” mà NXB Trí Thức vừa in 5/2017, nhân kỷ niệm tròn 20 năm ngày BSNKV qua đời) sẽ có cách nhận định khác. Còn với bản thân BSNKV, thì sinh thời, khi bị một số cơ quan “chính thống” phê phán là “phản động, gián điệp của Pháp”, cấm các báo đăng bài của ông thì ông vẫn thản nhiên và dành toàn bộ tâm huyết cho việc Nghiên cứu Tâm lý trẻ em – một lĩnh vực ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức… Ừ, thì cũng có thể nói đây là “cơ hội một cách sang trọng” – Nói theo kiểu nhà văn đặc sắc Nam Bộ Trang Thế Hy thì “cung đình không ưa, đây là cơ hội ta đi chỗ khác chơi!” Mà “kiểu chơi” Nghiên cứu Tâm lý trẻ em – khoa học nhân văn, giúp tạo nên những thế hệ con người tốt đẹp cho tương lai đất nước thì hẳn cũng đáng gọi là “sang trọng”!… Và đến cuối đời, thì có thể nói là ‘vàng thật không sợ lửa”, BSNKV vừa được Giải thưởng Lớn về Pháp ngữ của Viện Hàn lâm Pháp, vừa được Nhà nước ta tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
    1.- Sách VNMTLS, viết như HL “được viết ra gần 20 năm sau khi chiến tranh kết thúc” là sai. Có lẽ do HL không có điều kiện (hay lười) tìm tư liệu. Với lớp trí thức thời BSNKV (không chỉ với BSNKV – tạm gọi là “trí thức Tây học thiên tả”) thời điểm công bố tác phẩm rất quan trọng. Vì chính BSNKV đã viết khi NXB Trẻ tái bản “Một đôi lời” ngay trước khi ông qua đời như sau:
    “…Mới hơn 10 năm mà nay nhớ lại nhiều việc, như là chuyện thời xa xưa, cả nước đã chuyển sang một thời đại mới. Nay cho in lại, xin cứ giữ nguyên bản, không sửa chữa, như là một vết tích của một thời, để cho bạn đọc ngày nay thấy một số người “xưa kia” suy nghĩ những gì…Thời thế thay đổi, không thể không thay đổi ý kiến, loại trừ một số sai lầm tư tưởng, nhưng điều không thể thay đổi là cái đạo lý làm người. Thức thời, chứ không phải cơ hội…”
    Những dòng này tìm thấy dễ dàng trong bộ sách 5 cuốn của BSNKV do ThaihaBoosk xuất bản năm 2007. Cũng trong lần xuất bản này có ghi rõ: “Tác phẩm in lần đầu tại NXB Ngoại văn – Hà Nội, 1987”. Chưa hết! Nếu đến NXB Thế giới, bạn sẽ thấy cuốn in bằng tiếng Pháp năm 2007, có “Lời ghi nhận của NXB” (Note de L’ éditeur”) ở đầu sách , nói rõ cuốn sách được in lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1976…! Như vậy, VNMTLS in lần đầu , có thể là bản đã được BSNKV khởi thảo từ năm 1970. Trong cuốn sách mới xuất bản tháng 5/2017 (“Ước mơ & Hoài niệm” – Nguyễn Khắc Viện kể chuyện ” – NXB Tri thức), nội dung là hồi ký của BSNKV kể vào năm 80 tuổi, ở trang 176, có đoạn: “Sau khi Mỹ thả bom miền Bắc, các nước rất quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Ngoài việc bình luận thời sự kịp thời, chúng tôi thấy cần phải làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Năm 1970, Đảng Cộng sản Pháp đề nghị tập hợp những phần về lịch sử cách mạng, chống Pháp và bước đầu chống Mỹ cho đến năm 1960, in thành một cuốn Lịch sử Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, có một cuốn “Lịch sử Việt Nam” bằng tiếng Pháp, viết theo quan điểm của chúng ta, in ở Paris…” Dẫn ra vậy để thấy rõ BSNKV viết VNMTLS là làm nhiệm vụ tuyền truyền theo đường lối “chính thống”;từ đó, các nhận định về Phan Châu Trinh hay “Cải cách ruộng đất”, cũng như việc không nói gì đến vụ “Nhân văn giai phẩm”… đã không làm thỏa mãn một số người hiện nay – là điều rất dễ hiểu.
    Như vậy, xin được lưu ý: những ai đọc VNMTLS bằng tiếng Việt, cần biết xuất xứ và điều kiện cụ thể khi BSNKV viết NVMTLS bằng tiếng Pháp, để hiểu đúng một số vấn đề mà tác giả đã viết theo quan điểm “chính thống” thời đó. (Nếu sách được tái bản cũng cần ghi rõ điều này).
    Cũng cần chú ý thêm, “Lời ghi nhận của NXB” (dẫn ở trên) nói rõ, Chương XI “Con đường đi tới tương lai” mới viết bổ sung năm 1993… và nêu lý do những điểm chưa hoàn thiện hoặc “cập nhật” (Về đánh giá Triều Nguyễn, về tình hình đất nước sau 1975…) khi “một số nhân vật và sự kiện lịch sử đang được đánh giá lại”, nhưng khẳng định “tác phẩm của Nguyễn Khắc Viện vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Mang dấu ấn thời đại, nó vẫn là một cuốn sách tham khảo có giá trị bằng tiếng nước ngoài về lịch sử Việt Nam”… Còn BSNKV không hoàn thiện hay sửa lại một số nhận định, ngoài lý do ông đã viết như khi tái bản “Một đôi lời”, còn một điều nữa, là sau 1990, ông đã “chuyển hẳn giai đoạn”, chỉ lo nghiên cứu và xây dựng Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý trẻ em N-T, không tham gia công tác “tuyên truyền” đối ngoại cho Việt Nam mà ông phải gách vác trong nhiều năm về trước. Tuy vậy, chỉ cần nhớ đến việc BSNKV đã thẳng thắn đặt lại vấn đề “Nhân văn Giai phẩm” tại cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với 100 văn nghệ sĩ hồi tháng 10/1987 (xem “Ước mơ & Hoài niệm” – Sách đã dẫn) cũng như hai trang cuối VNMTLS viết bổ sung năm 1993 về các vấn đề xã hội-chính trị của Việt Nam sau Đổi Mới 1986, đủ thấy BSNKV là một con người như thế nào. Và dòng cuối cùng phần này ở VNMTLS, BSNKV đã viết: “Xin để phần người đọc có những ý kiến uốn nắn, nếu xét thấy cần thiết”. Trước đó, trong bài đăng “Kiến thức ngày nay” năm 1995 (đã dẫn), BSNKV cũng nói: “… Nếu nhà báo thông tin được hai chiều, tức là nêu tất cả những lời phê phán, chỉ trích tôi thì… vui hơn”. Như vậy, chẳng cần “to gan”, mọi người, nếu đủ kiến thức, trung thực và thiện ý đều có thể “luận” về BSNKV.
    2.- Xin lưu ý nguyên bản sách VNMTLS “bằng tiếng nước ngoài” – ông HL cũng thừa nhận “Tôi chỉ đọc được bản dịch…”. Đúng ra đã nghiên cứu, nhất là để đưa tới quy kết phủ định cả tác giả lẫn tác phẩm thì phải tìm nguồn gốc, xuất xứ các bản tiếng Pháp… Thôi, tạm thông cảm nhà nghiên cứu HL không đủ điều kiện tìm tư liệu, nhưng đã buông lời phê phán thì không được phép cắt xén. Tôi hy vọng là HL do “vô ý” (hoặc đang bị “ảnh hưởng” của xu hướng “hạ bệ thần tượng” và “giải huyền thoại” đang được một số người thích thú), chứ không “ác ý” khi cắt câu cuối về sự hy sinh của Phạm Hồng Thái. Không cần đọc nguyên bản, bản dịch đã dẫn của ThaihaBoosk năm 2007, đã in: “… Phạm Hồng Thái đã phải nhảy xuống sông Châu Giang rồi chết đuối, nhưng sự kiện này đã có một tiếng vang rất lớn.” Trích rồi cắt câu in đậm và phê phán: “Hai chữ “chết đuối” đặt ở đây e mắc tội với vong linh vị anh hùng…” thì dù “vô ý”, HL không chỉ có lỗi với BSNKV và bạn đọc mà cả với liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Một chuyên gia về Pháp ngữ ở Huế, đã phân tích BSNKV viết rất chặt chẽ, không viết là “Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông tự tử” như một số sách báo trước đây mà viết là “dut se jeter = dut> devoir = phải: ” phải nhảy xuống sông… ” – “phải” là thế cùng, không tự nguyện… ; rồi Se noyer= chết ngạt dưới nước; và ông phân tích thêm: PHT là một nhà cách mạng, ông phải tìm con đường sống, để tiếp tục làm cách mạng; cực chẳng đã phải chết thì mới chết…” – Đúng vậy, PHT sẵn sàng chết, nhưng nhảy xuống sông, chính vì còn hy vọng sẽ thoát, chứ tự tử thì thiếu gì cách chắc chắn hơn!)

    Nhiều đoạn trong bài của HL cũng trích câu cần phê phán, nhưng khi đọc toàn bộ, nhận định sẽ khác hẳn. Như về “Truyện Kiều”, HL chỉ phê phán BSNKV chỉ đề cao Truyện Kiều “tố cáo…” với “phản ánh hiện thực” nhưng đọc cả mấy trang, sẽ thấy BSNKV dành cả một đoạn dài phân tích nghệ thuật và các giá trị khác của Truyện Kiều rất toàn diện…(Đó là chưa nói, dành cho Nguyễn Du và Truyện Kiều hơn 4 trang trong một cuốn sử dân tộc mấy ngàn năm dài 500 trang, chứng tỏ tầm văn hoá của người viết. NKP chưa kiểm chứng, nhưng có lẽ đây là cuốn sử dành cho Truyện Kiều dài nhất, trong toàn bộ sách Lịch sử Việt Nam, xét về tỷ lệ dung lượng… Còn các “trách cứ” BSNKV không kể “công lao” nguyên bản truyện Kim Vân Kiều, hay nói BSNKV đã sai khi dẫn Kiều tự nói với chàng Kim mình còn trong trắng thì HL có biết các nhà “Kiều học” Việt Nam đã chỉ ra cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân chưa hề được đưa vào lần nào trong bất kì một cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc, do người Trung Quốc viết để dạy trong nhà trường cũng như phổ cập toàn xã hội và phê phán học giả Trung Quốc Đổng Văn Thành quanh luận điểm hoang đường là quá đề cao Kim Vân Kiều truyện, với dụng ý rõ rệt là hạ thấp Nguyễn Du. Phải chăng HL cũng chịu ảnh hưởng quan điểm đánh giá của Đổng Văn Thành và cũng không biết chuyện trên thế giới có bao nhiêu tác phẩm rất nổi tiếng xoay quanh một cốt truyện? Như vậy, thì VNMTLS cần gì phải nhắc đến Kim Vân Kiều.
    Truyện Kiều giấy trắng mực đen, câu 3161 “Chữ trinh còn một chút này” rành rành là Kiều nói với Kim Trọng (câu 3145 mở đầu đoạn đối thoại này viết : “Nàng rằng: “Phận thiếp đã đành…”). Đề nghị HL chịu khó đọc lại Truyện Kiều trước khi lên tiếng phê phán người khác. Riêng trường hợp này, có lẽ HL cần xin lỗi bạn đọc vì đã “vô ý” xuyên tạc cả Nguyễn Du! Theo một thành viên Hội “Kiều học”, nếu chọn 5 câu tiến bộ nhất, nhân đạo nhất trong Truyện Kiều thì ông xếp câu Kiều nói trên đứng thứ 2! Đây là một quan niệm cực kì mới mẻ về chữ “Trinh”, và chính vế sau đoạn này, BSNKV đã giải thích rất tường minh ý nghĩa hiện đại ấy mà HL không thấy, lại vội vã để kết luận BSNKV nhầm! Mặt khác, những ai có hiểu biết về sáng tạo VHNT, đều biết dù Kiều hay Kim Trọng nói thì thực chất đều là của… Nguyễn Du!
    3.- Để phủ nhận vị trí của BSNKV, HL đề nghị phải “…xét đến giá trị cuốn sách quan trọng nhất của ông: “VNMTLS”… Đây là riêng ý kiến HL thôi. Xin tìm đọc các sách về BSNKV đã xuất bản, có lần BSNKV đã nói đại ý: “Cái gọi là giá trị “để đời” thì biết đâu lại là tập sách mỏng về Dưỡng sinh, hoặc là chỉ mấy câu vè chỉ dẫn cách tập thở…” (BSNKV trả lời phỏng vấn đăng “Kiến thức ngày nay”, 1995 và đã in trong ách “Nguyễn Khắc Viện tác phẩm – Chân dung & Kỷ niệm, Tập 2”, Trang 123, NXB Lao Động, 2003). Lưu ý thêm, cũng trong cuốn “Ước mơ & Hoài niệm” vừa xuất bản tháng 5/2017, BSNKV không có 1 dòng nào nhắc đến cuốn “VNMTLS” (ngoài dòng nhắc đến cuốn viết năm 1970 theo đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp). Còn việc căn cứ vào “Giải thưởng Nhà nước” truy tặng cho VNMTLS, để cho đây là “Công trình quan trọng nhất” của BSNKV cũng không đúng nốt. Chúng ta đều biết, trong việc tặng các “Giải thưởng” và cả Huân chương của Nhà nước ta, đã có không ít “vấn đề”, rõ nhất là các kiện cáo phải hoãn đợt trao Giải Nhà Nước và Hồ Chí Minh vừa qua, bổ sung danh sách (đến ngày 20/5/2017 mới trao được mà vẫn có lời bàn là “người nhiều văn không được và ngược lại…); thậm chí có Anh hùng phải tước danh hiệu. Riêng trường hợp BSNKV, để rõ hơn, trích một đoạn bình giải một giấc mơ cuối đời của BSNKV (đã in trong sách “Nguyễn Khắc Viện Yêu & Mơ” – NXB Trẻ, 2015) như sau:
    “…cơ quan vừa làm hồ sơ đề nghị Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho ông, nhưng tác phẩm, công trình của BSNKV rất đa dạng, các “Hội đồng cơ sở” (như Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ Văn hoá, Bộ Y tế…) đều thấy không chỉ thuộc về ngành mình; rút cục, đưa xét công trình “Việt Nam một thiên lịch sử”, nguyên bản tiếng Pháp, lúc đó chưa dịch ra tiếng Việt, nên cũng có ý kiến: “Hội đồng có phải ai cũng đọc được tiếng Pháp đâu!” Thế là bỏ phiếu Giải thưởng Hồ Chí Minh không đạt, chuyển xuống tặng “Giải thưởng Nhà nước”. Tuy vậy, có ý kiến cho rằng: Đúng ra, nên đưa xét bản dịch Truyện Kiều (ra tiếng Pháp) và toàn bộ công trình nghiên cứu tâm lý của BSNKV…”
    ***
    Có lẽ chỉ cần nêu như thế, bạn đọc sẽ thấy bài của HL chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá BSNKV cũng như sách VNMTLS. Đề tài này, nhất là bàn về BSNKV, dù đã có rất nhiều sách báo bàn đến, muốn đầy đủ, có khi phải viết một cuốn sách, chưa hẳn đã được mọi người đồng tình, nhất là ở thời đoạn có nhiều biến đổi, không ít giá trị đang được “cân đong” lại. Cũng dễ hiểu, vì BSNKV là một nhân vật đã trải qua những bước ngoặt và “biến cố” khác thường…
    ________________________
    NKP gửi thêm bài “Bổ sung”tôi mới viết, chưa đăng để các anh tham khảo:

    Vẫn chưa hết chuyện
    về Nguyễn Khắc Viện & “Việt Nam một thiên lịch sử”
    Nguyễn Khắc Phê
    Cuối bài “Lại bàn về Nguyễn Khắc Viện & sách “Việt Nam một thiên lịch sử” (đăng Tạp chí “Kiến thức ngày nay” số 973, ngày 20/8/2017) trao đổi với ông Hoa Lư (HL) về bài “To gan luận về BSNKV” (đăng trên trang Tiếng Dân ngày 19/7/2017 và được một số nhà nghiên cứu chú ý bình luận trên FB của ông La Khắc Hòa), tôi đã viết: “…muốn đầy đủ, có khi phải viết một cuốn sách, chưa hẳn đã được mọi người đồng tình, nhất là ở thời đoạn có nhiều biến đổi, không ít giá trị đang được “cân đong” lại…”. Quả nhiên, sau khi đọc bài viết trên, một bạn đọc cũng là chỗ thân tình bảo: “Tôi vẫn thắc mắc vì sao BSNKV khi viết về Cải cách ruộng đất (CCRĐ) không nhắc đến những sai lầm ghê gớm mà ai cũng biết? Nhất là trong hoàn cảnh gia đình cụ Viện đã phải chịu nhiều đau khổ trong CCRĐ. Một bạn khác thì nói: “Có phải ai cũng có điều kiện tìm đọc các sách về BSNKV đã xuất bản trước đây đâu; nên ít ra cũng cần vắn tắt cho biết BSNKV đã nói với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh về “Nhân văn giai phẩm” như thế nào? Cũng muốn biết đoạn cuối VNMTLS mà BSNKV mới viết bổ sung năm 1993 nói những gì?… “
    Quả là bài đăng trên “Kiến thức ngày nay” có một số “chi tiết” tôi chưa viết “hết ý” vì bài đã khá dài, nay xin “bổ sung” vì nó liên quan đến những sự kiện lịch sử vẫn đang được nhiều người quan tâm.
    1.- Đã nhắc đến BSNKV viết về CCRĐ trong cuốn “Việt Nam một thiên lịch sử” (VNMTLS) như thế nào, thì quả là cần nói kỹ hơn một chút, do HL viết khá dài về hoàn cảnh xuất thân đặc biệt của BSNKV (con địa chủ quan lại, bị đấu tố…) và cho rằng “nghiên cứu thái độ của Nguyễn Khắc Viện về vấn đề này có thể mang đến nhiều giải đáp thú vị”; sau đó, HL dẫn ra cách nhìn nhận của người em là Nguyễn Khắc Dương về thân phận bi thương của bố và mẹ trong CCRĐ so sánh với “âm hưởng hào hùng… chỉ có thắng lợi, chỉ có quyết tâm… lời lẽ đầy uy lực” của BSNKV trong 2 trang viết “rất lạ” về CCRĐ… Điều HL dẫn ra là có thật, nhưng đem so sánh hai anh em trong trường hợp này là không thỏa đáng (nếu không muốn nói là vô ích) vì người em là tín đồ Ki-tô giáo, bày tỏ tâm sự riêng tư; còn người anh là giới thiệu vắn tắt một phong trào cách mạng quan trọng của Việt Nam với người nước ngoài, theo nhận định của đảng cộng sản, nên khác nhau là tất nhiên, chẳng có gì lạ. Đúng ra, cái “lạ” là một cuộc cách mạng long trời lở đất như thế mà BSNKV chỉ dành có 2 trang, chưa bằng một nửa dung lượng giới thiệu Truyện Kiều! Có thể hiểu là BSNKV không đánh giá cao cuộc cách mạng này, chỉ dẫn ra những “thành quả” và nhận định theo quan điểm “chính thống” (trong đó có một đoạn trích ý kiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp) mà nếu nhìn nhận một cách công bằng thì đó là những điều có thật… Không chỉ HL và một số bạn đọc, mà chính trong gia đình BSNKV cũng có người “thắc mắc” vì sao BSNKV không đề cập đến những sai lầm nghiêm trọng trong “Cải cách” . Tuy nhiên, hồi ấy, chúng tôi không ai trực tiếp “chất vấn” BSNKV, có lẽ vì dù sao sai lầm trong CCRĐ cũng là chuyện đã qua trên chục năm, mà trước mắt thì BSNKV trong điều kiện sức khỏe chỉ thở với non 1 lá phổi, lại đang phải gánh những trách nhiệm nặng nề trong văn hoá và tuyên truyền đối ngoại lúc Mỹ đánh Việt Nam và trước cả những vấn đề gay cấn như nạn “thuyền nhân”, rồi quan hệ với Căm-pu-chia…; sau đó thì BSNKV lại ở trong tình thế bị “bao vây, phong tỏa” vì các kiến nghị gay gắt, đòi hỏi Đổi Mới một cách triệt để… Đến nay thì chỉ có thể suy đoán BSNKV để “sót” sai lầm CCRĐ vì: 1) Đã viết vụ này thì không thể viết ngắn mà so với lịch sử hàng ngàn năm của Việt Nam thì CCRĐ không thể chiếm nhiều trang. 2) Đối tượng của VNMTLS là người nước ngoài, đa số họ chỉ cần biết tổng thể, tiến trình lịch sử Việt Nam – trong đó có việc năm 1953-1955, tiến hành CCRĐ chia ruộng cho nông dân, khiến nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, xóa bỏ hẳn chế độ phong kiến (về quản lý ruộng đất…) Đó là sự thật, là đủ đối với đa số người nước ngoài. Còn những ai muốn đi sâu thì không thiếu tài liệu, sách báo viết về sai lầm CCRĐ. Đảng Lao động Việt Nam cũng đã thừa nhận sai lầm và cử đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt xin lỗi nhân dân…Tất nhiên, một lý do nữa là vì xu thế “chính thống” lúc đó không muốn nhấn mạnh sai lầm, mà quên nghĩ đến mục đích tốt đẹp của CCRĐ phần nào đã được thực hiện là nông dân được làm chủ ruộng đất mà mình canh tác…
    Nhân đây, cung cấp thêm một tư liệu cho biết BSNKV đã nghĩ về sai lầm CCRĐ như thế nào. Trong sách “Ước mơ & Hoài niệm”, bản in lần đầu năm 2003 (NXB Đà Nẵng) đã có đoạn: “Có việc rất xúc động mà tôi nhớ mãi là có một anh công nhân ở Lyon… anh ấy bị ung thư máu, gọi tôi đến, giao quyển sổ tiết kiệm… bảo: “Anh lấy tiền này mua sách gửi về cho Đại học Hà Nội.” Tôi hỏi: “Tại sao anh không để tiền gửi về cho gia đình?” Anh nói: “Gia đình tôi được cải cách ruộng đất rồi, có ruộng đất rồi, không cần nữa”. Qua đó thấy rằng đối với cải cách ruộng đất có hai cách nhìn. Chính tôi hồi đó cũng hiểu rằng, một cuộc cách mạng nào chẳng có vấp váp, tránh sao được, cách mạng Pháp cũng thế, cách mạng Nga cũng thế. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng sai lầm lớn của chúng ta trong cải cách ruộng đất đã gây một sự xao xuyến trong anh em Việt kiều, những tin dữ dội về cải cách ruộng đất đụng chạm đến gia đình thân nhân họ… Báo chí Sài Gòn khuấy chuyện này lên, tờ Tự do cũng kích động bản thân tôi, có bài nói về Ông cụ tôi ở miền Bắc bị thế này thế nọ…”
    Nhân nhắc đến thân phụ BSNKV, xin cung cấp thêm một chi tiết: Mặc dù sức khỏe hạn chế và bận nhiều công việc, trong gia đình chúng tôi, BSNKV là người đầu tiên nhắc đến chuyện phải tìm cách đưa hài cốt thân phụ từ Trại Đưng (nơi giam tù nhân trong cải cách ruộng đất ở Hà Tĩnh…) về, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, năm 1976, chính BSNKV và anh tôi là Nguyễn Khắc Phi đã trực tiếp lên Trại Đưng làm điều đó và khi mang về Hà Nội, cũng chính BSNKV đã tham gia việc hỏa táng hài cốt Cụ rồi thờ trong căn phòng của mình (mãi đến năm 1995 mới có điều kiện đưa di hài Cụ về an táng ở quê nhà…) Một người bà con của BSNKV là trí thức miền Nam (hiện ở Mỹ), khi biết chuyện BSNKV trực tiếp đến tận vùng núi xa xôi cách trở, đi lại rất vất vả vì đất nước mới hòa bình, để lo việc cải táng cho thân phụ, đã rất ngạc nhiên do còn vướng quan niệm người cộng sản sống kiểu “vô gia đình” mà!
    2.- Một số điểm khác cần nói thêm:
    a) Trong bài của HL có “Một câu hỏi bỏ ngỏ”: “Viết về văn hoá xã hội, về trí thức mà bỏ qua, không có một dòng nào về câu chuyện “nhân văn giai phẩm”(?), thực sự là một câu hỏi khó về “bản lĩnh” của BSNKV.” HL đặt vấn đề như vậy là đúng; tôi cũng hình dung BSNKV đã phải “bóp trán” cân nhắc một cách “khó khăn” trước máy đánh chữ khi nghĩ đến vụ này. Nhưng nếu xét về “bản lĩnh” của một con người, không thể chỉ căn cứ vào một sự việc; mặt khác, xin lưu ý một lần nữa, BSNKV viết VNMTLS từ quan điểm “chính thống” tại một Nhà xuất bản ở Hà Nội, tất nhiên là do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chứ không phải đăng lên ‘Fây”, thích gì viết nấy như hiện nay. (Tương tự, việc đánh giá một số hiện tượng, nhân vật trong lịch sử Việt Nam như Phan Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh… trong VNMTLS cũng theo “nguyên tắc đó”, một số bạn đọc hiện nay không đồng tình là điều có thật. Tuy vậy, cần thấy, cho đến nay – giữa năm 2017 – về các nhân vật đó, các nhà nghiên cứu lịch sử trên nhiều tờ báo vẫn còn tranh cãi “quyết liệt”, người ca ngợi, kẻ lên án nặng nề, một người viết sử “không chuyên” như BSNKV, chỉ với mục đích tuyên truyền cho bạn bè thế giới hiểu thêm Việt Nam, từ những năm 70 của thế kỷ trước, tất phải chọn cách diễn đạt theo “chính thống” …)
    Về vụ “Nhân văn”, xin lưu ý thêm, cho đến nay (năm 2017), mặc dù một số tác giả liên quan đã được tặng Giải thưởng Nhà Nước, nhưng Đảng (hoặc cơ quan thuộc Đảng lãnh đạo, quản lý như Bộ Văn hoá. v…v…) vẫn chưa hề có văn bản chính thức công khai nhận sai lầm trong vụ này và minh oan cho các tác giả liên quan. Thử hỏi, từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, BSNKV làm sao có thể tự mình làm điều đó? Và thử hỏi, nếu BSNKV có bản lĩnh làm việc đó, để rồi VNMTLS không được xuất bản, không còn dịp giới thiệu cho thế giới biết rõ về nước Việt Nam mấy ngàn năm văn hiến với các tên tuổi như Trần Hưng Đạo, Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… thì sự “can đảm” ấy có đáng không? Vì việc lớn, phải hy sinh tiểu tiết; cũng như liên quan đến CCRĐ, BSNKV phải tạm gác tình riêng, không để nỗi đau thương về người bố bất hạnh khiến ngòi bút khi viết về CCRĐ chỉ còn đậm nét chuyện “đấu tố” máu me, che lấp niềm vui có thật của hàng triệu nông dân khi được chia ruộng đất (mà một hiệu quả gần, dễ thấy nhất mà BSNKV đã ghi nhận trong Hồi ký là “Sau CCRĐ, mỗi người nông dân được một mảnh đất, họ làm chủ mảnh đất ấy, muốn cày cấy gì, muốn bán sản phẩm cho ai tùy ý. Nhờ đó, năm 1959, miền Bắc được mùa lớn nhất từ năm 1955…” )
    Đặt vấn đề như vậy, có lẽ phần đông bạn đọc sẽ thông cảm việc BSNKV để “sót” vụ “Nhân văn” trong VNMTLS, đồng thời thấy rõ BSNKV đã thực hiện “tuyên ngôn” về cách xử thế đã dẫn ở bài trước: “…Thời thế thay đổi, không thể không thay đổi ý kiến, loại trừ một số sai lầm tư tưởng, nhưng điều không thể thay đổi là cái đạo lý làm người. Thức thời, chứ không phải cơ hội…” Chính vì thế, tôi sẽ dẫn ra quan điểm mới của BSNKV qua ý kiến phát biểu tại cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1997 với 100 văn nghệ sĩ; cũng là dịp để thấy được “bản lĩnh” của BSNKV. Bài này đã in báo “Văn nghệ” ngay lúc đó và in lại trong cuốn “Đổi mới?” (NXB Thanh Niên, 1989); trong Hồi ký mới xuất bản của BSNKV (NXB Tri thức, 2017), tác giả chỉ kể vắn tắt qua 1 trang in, trong khi bài dài 7 trang. Cuộc gặp tổ chức ngày 6/10/1987, tức là tròn 30 năm đã qua! BSNKV không chỉ thẳng thắn nêu lại chuyện “Nhân văn” (nếu tôi không nhầm thì ông là người đầu tiên nói trước lãnh đạo cấp cao nhất tại một diễn đàn lớn) mà đặt vấn đề rộng hơn, quan trọng hơn, đến này vẫn còn tính thời sự; đó là “Tháo gỡ trói buộc cho văn học nghệ thuật”. Phần đầu, BSNKV nêu lên tình hình hiện nay đất nước “đang cần những con người, chủ động, có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội”; trong khi đó, “cuộc sống trở thành một cuộn tơ vò, mục tiêu xây dựng một xã hội mới, con người mới mờ nhạt; con người đâm ra thụ động, bi quan là khác…”; nhưng văn nghệ sĩ “nhạy cảm với tâm tư nguyện vọng của nhân dân, với những gì mới chớm nở… bầu máu nóng và tính sáng tạo của họ…khuấy động trong lòng nhiều người… thúc đẩy cuộc sống…” Tiếp đó, BSNKV cho rằng vừa qua, văn nghệ “chưa đóng được vai trò xúc tác ấy. Vì bị trói buộc… Văn nghệ sĩ phải làm vừa ý những ai cấp tiền, ai cho phép… Nói thẳng, nói thật, là sự lãnh đạo văn nghệ trong mấy năm qua nhiều lúc còn khá thô sơ, tìm cách bắt sâu trong một vườn hoa quý lại dùng dao búa trong rừng khai hoang. Đao to búa lớn lại do những con người quen đốn cây, phạt bụi bờ. Trong nhiều năm, những người làm báo, làm phim, viết văn thường xuyên được nhắc nhở: phải làm thế này, không được làm thế kia. Bị trói buộc bởi một loạt húy kỵ…Lâu lâu lại nổ ra một vụ án văn học… Thông thường bản án nào cũng có kỳ hạn, mãn ra tù; còn bản án văn học thì cứ mãi mãi treo lơ lửng trên đầu và cũng không có văn bản…thật là một bản án chung thân, có khi còn bị hại đến cả đời con cháu…” Tiếp theo, BSNKV phân tích hiện trạng trên đã khiến văn nghệ sĩ “vừa phải “viết” vừa phải “lách”… tự mình duyệt lấy mình, những gì góc cạnh, phóng khoáng… chua cay, bi đát, tước bỏ đi, cái gì cá tính quá rõ phải gột đi, những câu chuyện số phận con người , đi sâu vào nguồn gốc cái thiện, cái ác đành không nghĩ đến, tác phẩm nào cũng hao hao giống nhau, như các căn hộ của một khu nhà lắp ghép…” Cuối cùng, BSNKV nêu ra một số kiến nghị cụ thể như: các vị lãnh đạo Đảng các cấp không bao giờ lên án một tác phẩm văn nghệ, để các ngành văn nghệ tự phê phán lấy nhau; nếu quyết định cấm in, cấm diễn thì phải ký rõ tên ai, “lãnh đạo quản lý xin bổ nhiệm những vị biết người biết của…; xử lại những tác phẩm và con người bị kết án thời nhân văn giai phẩm, nay hoặc xóa án, hoặc kết luận là đã mãn hạn, cho trở lại hoạt động bình thường…”
    Báo Văn nghệ tường thuật cuộc gặp gỡ này đã tả cảnh đồng chí Tổng Bí thư đã vui vẻ bắt tay và trực tiếp nhận bài phát biểu từ tay BSNKV.

    b) Về những trang BSNKV viết bổ sung năm 1993 trong chương cuối VNMTLS với nhan đề “Con đường đi tới tương lai”, ông HL trích “bốn quyết tâm” ở đoạn cuối và có ý mỉa mai: “Cả bốn quyết tâm “xóa bỏ” (chế độ phong kiến, tư bản…), “cải cách” (CCRĐ, hợp tác hóa, thành lập nông trường quốc doanh), “phát triển” (kinh tế Nhà nước…) và “hội nhập” (vào phe “xã hội chủ nghĩa”…) mà bác sĩ Viện đưa ra chỉ có một giá trị duy nhất. Ấy là việc gợi lại cho các độc giả đã qua tuổi tri thiên mệnh rùng mình nhớ về những đợt học chính trị vô vị, buồn chán và dài lê thê của 30 năm về trước.” HL có quyền nghĩ như thế, nhưng xin lưu ý, trước khi nêu “bốn quyết tâm”, BSNKV viết: “Một khi chính quyền đã ở trong tay một Nhà nước nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì con đường đã được vạch ra…” – tức là “bốn quyết tâm” đó là tóm tắt đường lối của Đảng lúc đó. Tuy vậy, sau khi viết tiếp 2 trang phân tích nhiều mặt xã hội Việt Nam (từ tôn giáo, dân tộc, địa chính trị …), BSNKV đặt liên tiếp hai câu hỏi: “Trong chừng mực nào Đảng sẽ có thể đảm đương sự lãnh đạo tư tưởng, văn hoá của cả dân tộc? Câu hỏi này trực tiếp gắn liền với một câu hỏi khác: những cấu trúc xã hội-chính trị nào sẽ thích hợp với việc thiết lập một nền kinh tế thị trường?” Tiếp đó, BSNKV đã nhận định Việt Nam đã “nẩy sinh một thứ “chủ nghĩa tư bản hoang dã” mà sự phát triển có nguy cơ dẫn đến những tai họa về sinh thái, làm gay gắt trầm trọng thêm những bất bình đẳng và tệ nạn xã hội, tội phạm, ma túy. Thứ “chủ nghĩa tư bản hoang dã” này huy động những bộ phân quan trọng trong bộ máy Nhà nước phục vụ cho nó, biến họ thành một tổ chức maphia thực sự, kẻ thù của mọi hình thức dân chủ, của công bằng xã hội và bảo vệ sinh thái…” Mặc dù kết thúc VNMTLS, tác giả đề nghị “người đọc có những ý kiến uốn nắn, nếu thấy cần thiết”, nhưng xem ra điều BSNKV viết từ 24 năm trước, có vẻ như vẫn đúng với thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay.

    c)- Cũng về cách đánh giá BSNKV và VNMTLS, ông HL có ý mỉa mai khi nhắc đến “những lời tán dương nồng nhiệt của nhiều tác giả tên tuổi” (như Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nhà phê bình Mai Quốc Liên, ông Hoàng Tùng) vì HL “đã đọc cuốn sách một cách khó nhọc, đã buồn bã suy tư…” Điều cần ‘đính chính” (không phải cho BSNKV mà cho các “tác giả tên tuổi” bị HL điểm danh) tuy không thật quan trọng, nhưng cũng cần tranh gây hiểu lầm: đó là ngoại trừ lời khen của ông Hoàng Tùng là dành riêng cho cuốn VNMTLS (in ở bìa 4 bản in năm 2007 của ThaiHaBoosk), còn nhận xét của bà Nguyễn Thị Bình và giáo sư Mai Quốc Liên là viết về toàn bộ tác phẩm của BSNKV – câu của giáo sư Mai Quốc Liên trích từ bài viết đăng báo “Sức khỏe & Đời sống”, ngay sau khi BSNKV qua đời năm 1997, khi bản dịch VNMTLS ra tiếng Việt chưa xong, nên trong bài, Mai Quốc Liên không có chữ nào nhắc đến công trình này mà nêu các tác phẩm nổi tiếng khác của BSNKV như “Bàn về Đạo Nho”, bản dịch Kiều và bộ tuyển, nghiên cứu văn học…; còn câu của bà Nguyễn Thị Bình là trích từ bài viết đăng mở đầu cho tất cả các tập trong bộ “Nguyễn Khắc Viện – Tác phẩm”, NXB Lao động dự kiến in nhiều tập, nhưng do “đối tác liên kết” gặp khó khăn, mới chỉ in được 3 tập, tập I ra đời năm 2002… Lúc này, cuốn VNMTLS cũng dịch chưa xong! Ông HL nhầm, có lẽ do không đủ tư liệu. Nói rõ như vậy, cũng để thấy, giả như không có công trình VNMTLS, sự đánh giá của các “tên tuổi” cũng như phần lớn dư luận về BSNKV lâu nay sẽ không thay đổi, mặc dù VNMTLS “vẫn là một cuốn sách tham khảo có giá trị bằng tiếng nước ngoài về lịch sử Việt Nam” như “Lời ghi nhận của NXB Thế giới” trong bản tiếng Pháp in năm 2007…

    d)- Xin nêu thêm hai chi tiết thật là nhỏ, nhưng có lẽ cũng cần làm sang tỏ hơn:
    + Ngay đầu bài viết, HL trích từ “không gian ảo” một đoạn thư của BSNKV viết ngày 30/11/1986 gửi Tố Hữu – “một quan đại thần của triều đình, cũng là đại thần của thi ca cách mạng Việt Nam” và nêu câu hỏi: “… không biết bức thư của vị “sĩ phu hiện đại” có được gửi đi hay không…”
    Về chuyện này, BSNKV đã nhắc đến trong Hồi ký mới xuất bản, thư đã gửi đi, nhưng nhà thơ Tố Hữu không trả lời – tức là thư có thật, chứ không “ảo”, hiện đang lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3 Hà Nội. BSNKV cho biết ông viết thư trước Đại hội 6, khi “dư luận giới trí thức nghe tin đồng chí Tố Hữu có khả năng làm Thủ tướng, chẳng ai vui lòng cả…” Tuy vậy, cần “đính chính” một câu mà HL (có lẽ do lấy từ “không gian ảo”) trích không chính xác. Câu trích của HL như sau: “…Anh mà trở lại Trung ương, trở lại chức quyền là chôn vùi sự nghiệp thơ trong lòng nhân dân.” Nguyên văn BSNKV viết: “…Anh mà trở lại Trung ương, Bộ Chính trị thì bài báo đối ngoại đầu năm tôi phải viết sẽ là bài “La mort d’un poète”. Chắc không được đăng, nhưng ít nhất cũng được truyền trong một số bạn.” (Mấy từ tiếng Pháp trong đoạn này có nghĩa: “Cái chết của một nhà thơ”) Sau đó, đồng chí Tố hữu không trúng cử Trung ương, nên chắc là hai vị nếu gặp nhau ở “thế giới khác” vẫn sẽ “mãi mãi giữ lấy tình cảm thắm thiết” như câu cuối lá thư BSNKV đã viết…
    + Điều này thì còn nhỏ nhặt hơn: HL “đặt bên nhau hai cuốn lịch sử của hai tác giả, cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim và VNMTLS của BSNKV…một nhà giáo khiêm cung nhận “sử lược”… một “tự hào rằng “một thiên lịch sử”…” Cái ý mỉa mai của HL thì đã rõ rồi. Chỉ xin nhắc tên nguyên bản tiếng Pháp là “Vietnam une longue histoire”, chẳng lẽ dịch là “Việt Nam một cuốn lịch sử dài” là hay hơn sao?…
    ***
    Xin được tự nhận mình như là “người trong cuộc”, tôi nêu lên một số tư liệu để mọi người có thêm căn cứ bình xét; còn việc đánh giá VNMTLS, nếu thấy cần thiết, có lẽ Hội Nghiên cứu lịch sử Việt Nam là cơ quan có tiếng nói có “trọng lượng” nhất. Là một người không chuyên về sử học, tôi nghĩ rằng bạn đọc nước ngoài (hầu hết là trí thức) có thừa điều kiện để tìm sách báo viết về Việt Nam, chắc là không đến nỗi dại hay bị lừa bỏ tiền ra mua sách của BSNKV. Họ cũng thừa biết BSNKV là một người cộng sản; mặt khác, từ khi Đất nước bước vào Đổi Mới 1986, với sự lan tỏa nhanh chóng của truyền thông, họ cũng biết BSNKV là người cộng sản đã thẳng thắn đặt vấn đề xây dựng một “Đảng kiểu mới” với rất nhiều thư và kiến nghị mạnh mẽ gửi lãnh đạo cấp cao đòi hỏi mở rộng dân chủ, thay đổi phương thức lãnh đạo… Vậy thì VNMTLS – ngoại trừ mấy chi tiết HL trích dẫn (và cũng có thể còn vài chi tiết nữa) có thể có một số nhận định chưa thỏa đáng, “vết tích của một thời” còn “ngây thơ” như chính BSNKV thừa nhận trong cuốn Hồi ký mới xuất bản, tất cả cộng lại nhiều lắm chỉ mươi trang, còn 490 trang nữa, hẳn là có “phẩm chất chi đó” vượt lên sự chi phối của ý thức hệ và sự “nóng lạnh” thất thường của thời cuộc, cuốn sách mới có thể được in nhiều thứ tiếng và đã in lại đến 7-8 lần!…

    Điều cuối cùng, tôi gửi lời cảm ơn ông HL mà tôi chưa có hân hạnh quen biết vì dù sao bài viết của HL – tuy có một số điểm không chính xác, một số nhận định không thỏa đáng – đã tạo cơ hội cho chúng tôi cung cấp một số tư liệu có thể nhiều người chưa rõ, để có thêm căn cứ khi bình xét công trình VNMTLS cũng như về sự nghiệp BSNKV, nếu quả là việc đó cần cho hậu thế như HL từng viết, chứ BSNKV còn cần chi sự tôn vinh nữa! (HL khi trả lời Đinh Thắng đã viết: “Cụ Viện đã là một nhân vật lịch sử, mọi khen chê với Cụ là vô nghĩa, nó chỉ thực sự có ý nghĩa với các thế hệ học trò của Cụ thôi”.)
    ______________
    Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Khắc Phê, 8 Xuân Diệu, Huế.ĐT:0234.3828399. Mobile: 098.9965409; Email: ngkphe@gmail.com

Gửi phản hồi cho Đnh Thắng Hủy trả lời